Giá trị khảo cổ vùng Công viên địa chất Lạng Sơn

25/06/2024

 

Với vị trí địa lý đặc biệt và những đặc điểm địa chất - địa mạo, độc đáo, riêng riêng biệt vùng đất Lạng Sơn xưa, cụ thể là Khối núi đá vôi Bắc Sơn (Cánh cung Bắc Sơn, Nếp lồi Bắc Sơn) là một trong những cái nôi của Người Việt cổ với các hiện vật được các nhà khảo cổ học tìm thấy tại hang Thẩm Khuyên – Thẩm Hai, xã Tân Văn, Huyện Bình Gia thì ít nhất là từ khoảng 500.000 năm trước ngày nay, đãsự xuất hiện người Homo Erectus ("người đứng thẳng", là một loài người đã tuyệt chủng từng sinh sống trong phần lớn khoảng thời gian thuộc thế Pleistocen), Kéo Lèng (thị trấn Bình Gia, cách Hang Thẩm Khuyên – Thm Hai khoảng 3 km) đã tìm thấy hóa thạch Homo sapiens (người tinh khôn – Người hiện đại).

          Cách đây hơn một thế kỷ, các nhà địa chất người Pháp H. Mansuy và M. Colani đã tiên phong điều tra, khai quật phát hiện rất nhiều di tích văn hóa của nền văn hóa Bắc Sơn (niên đại 10.000 – 7000 năm cách ngày nay). Năm 1998 với việc xác lập nền văn hóa Mai Pha (niên đại 4.000 – 3500 năm cách ngày nay) chứng tỏ tỉnh Lạng Sơn nói chung và vùng CVĐC nói riêng là nơi có quá trình sinh sống của con người sớm nhất và liên tục nhất nổi bật với ba loại di sản có giá trị to lớn: một khu vực tiến hóa của loài người; văn hóa Bắc Sơn và văn hóa Mai Pha.

1. Một khu vực tiến hóa của loài người    

          Hang Thẩm Khuyên - Thẩm Hai là địa điểm chứa tàn tích Homo erectus độc nhất vô nhị ở Việt Nam được nhóm nghiên cứu chung của Việt Nam tìm thấy và khai quật. Các nhà khảo cổ học người CHDC Đức năm 1964-1965.

          Trong lớp trầm tích cứng màu đỏ nhạt Pleistocen giữa, hóa thạch tìm thấy là 9 chiếc răng rời của loài Homo erectus , cùng với nhiều loài động vật hóa thạch khác như đười ươi lùn ( Pongo pygmaeus ), voi Stegodon, lợn rừng, tê giác v.v. và đặc biệt là loài vượn khổng lồ ( Gigantopithecus ). đen ). Hóa thạch Homo erectus trong hang Thẩm Khuyên được xác định niên đại bằng phương pháp ESR (Cộng hưởng spin điện tử), cho độ tuổi từ 401.000±51.000 đến 534.000±87.000 năm BP, hay trung bình là 500.000 năm BP, được cho là sớm nhất ở Việt Nam và khá gần với loài Homo erectus Bắc Kinh ( Sinanthropus pekinensis ) tại Chu Khẩu Điếm có niên đại từ 0,5-0,3 Ma BP.

 

Hoá thạch Răng của người Homo Erectus

(Ảnh : Nguyễn Lân Cường)

          So sánh đặc điểm hình thái răng của Lạng Sơn Homo erectus với đảo Java Homo erectus ( Pithecanthropus modjokertensis ) (Indonesia) có độ tuổi 1-0,7 Ma và Homo erectus Bắc Kinh ( Sinanthropus pekinensis ) (Trung Quốc) có độ tuổi 0,5-0,3 Ma, có thể thấy rằng Lạng Sơn Homo erectus nằm ở giữa, cả về không gian và thời gian, kéo dài từ đầu đến giữa đến cuối Pleistocen. Như vậy, Homo erectus Lạng Sơn đóng góp một mối liên kết trong quá trình tiến hóa của Homo erectus cũng như một bằng chứng về cái nôi của con người ở Đông Nam và Đông Á.

Xương một số loài động vật tìm thấy tại Hang Thẩm Khuyên - Thẩm Hai.

(Ảnh chụp tại Bảo tàng Lạng Sơn)

          Tại hang Kéo Lèng (thị trấn Bình Gia, cách Hang Thẩm Khuyên - Tham Hai khoảng 3 km), khai quật năm 1966 đã tìm thấy hóa thạch Homo sapiens (răng và xương chẩm) và các loài động vật (khỉ, đười ươi, nhím, chuột, gấu, hổ, v.v.). báo, voi Stegodon, tê giác, trâu rừng, hươu, dê, v.v.) trong trầm tích màu vàng nhạt cuối thế Pleistocen muộn, biểu thị môi trường cổ nhiệt đới khô.

2.Văn hóa khảo cổ Bắc Sơn

Văn hóa Bắc Sơn được đặt tên theo khối núi đá vôi Bắc Sơn, nơi H. Mansuy lần đầu tiên khai quật hang Thẩm Khoách (huyện Bình Gia) vào năm 1906. Đến năm 1925, với sự hỗ trợ của M. Colani, H. Mansuy đã phát hiện và khai quật thêm 24 địa điểm mới , khẳng định sự tồn tại của Văn hóa Bắc Sơn, có niên đại sớm thời kỳ đồ đá mới khoảng 11.000-5.000 năm trước.

Các di chỉ Văn hóa Bắc Sơn

          Đến nay, người ta đã phát hiện được gần 76 di tích Văn hóa Bắc Sơn, trong đó Lạng Sơn có 46 địa điểm , phân bố chủ yếu trong khối núi đá vôi Bắc Sơn trong địa bàn các huyện Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng, Chi Lăng, Văn Quan, Ngoài địa bàn gốc là khu sơn khối Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn, văn hóa Bắc Sơn còn phân bố sang một số khu vực hang động núi đá vôi ở Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Cao Bằng, Hà Giang. Văn hóa Bắc Sơn được cho là kết thúc cùng với văn hóa Hòa Bình nhưng bắt đầu muộn hơn nhiều. Cũng có ý kiến cho rằng Văn hóa Bắc Sơn và Văn hóa Hòa Bình giống nhau và văn hóa Bắc Sơn có nguồn gốc từ văn hóa Hòa Bình nhưng trên thực tế chúng có nhiều điểm khác biệt. Cụ thể:

          1). Kỹ thuật mài một mặt trong chế tạo công cụ bằng đá, chủ yếu sử dụng lõi sỏi ở văn hóa Hòa Bình, trái ngược với kỹ thuật mài, vẩy hai mặt ở văn hóa Bắc Sơn;

          2). Công cụ đá Sumatralith (Trong kỹ thuật chế tác đá, ngoài những kỹ thuật ghè trực tiếp, ghè hạn chế ở rìa mép viên cuội đã xuất hiện kỹ thuật ghè xung quanh, hướng tâm công cụ (kỹ thuật Sumatralith) rất điển hình nhằm tạo ra những công cụ gần như hình bầu dục hoặc rìu ngắn)  phổ biến trong văn hóa Hòa Bình, trong khi rìu mài lưỡi và dấu Bắc Sơn là những nét nổi bật của văn hóa Bắc Sơn. Những khác biệt này có thể xuất phát từ sự khác biệt về nguồn gốc, tức là văn hóa Bắc Sơn được hình thành độc lập, có nguồn gốc khác với văn hóa Hòa Bình. Người Bắc Sơn là người đầu tiên của vùng núi Đông Bắc trước khi người Hòa Bình đến. Văn hóa Hòa Bình phát triển mạnh mẽ ở phía Tây và một số vùng đảo ở Đông Nam Á nhưng chưa thể hiện rõ ở khu vực biên giới Trung-Việt. Ngược lại, văn hóa Bắc Sơn có ảnh hưởng rõ rệt hơn ở khu vực này cũng như vùng ven biển các tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam) và Quảng Đông (Trung Quốc ).

Công cụ văn hóa Bắc Sơn: 1. Rìu hình quả hạnh; 2-3. Trục được mài sắc bằng lưỡi; 4. Công cụ hình rìu; 5-10.  Dấu Bắc Sơn; 11-14. Mảnh tước.

(Ảnh: Phan Thanh Toàn)

          Một trong những nguồn thức ăn phổ biến mà cư dân văn hóa Bắc Sơn khai thác là các loài động vật hoang dã. Trong tầng văn hóa một số di chỉ Bắc Sơn tìm thấy nhiều di cốt động vật: họ hươu (Cervidae), họ trâu bò (Bovidae), họ lợn (Suidae), họ cầy cáo (Viverridae), nhím (Hystricides), linh trưởng (Primates); vượn Hylobates of concolor; khỉ Macaca assamensis; lửng Arctonyx collari; tê giác Rhinoceros sp.; lợn rừng Sus scorofa; hươu Cervus sp.; nai (Rusa unicolor), một số loài chim, thú khác; nhuyễn thể: loài ốc núi miệng tròn Cyclophorus, Hybocystis., ốc suối Antimelania sp, các loài trai, trùng trục, ngao, hến… sống trong các đầm hồ, sông, suối, ít loài sống trên cạn.

          Cư dân văn hóa Bắc Sơn thuộc các loại hình chủng tộc như Indonesien, Melanesien và các dạng hỗn chủng giữa chúng với Australoid, Mongoloid, Negrito hoặc Australo-Melanesie. GS Hà Văn Tấn cho rằng Indonesien và Melanesien là hai loại hình tìm thấy nhiều nhất trong văn hóa Bắc Sơn. Trong đó, Indonesien là loại hình thuộc tiểu chủng Mongoloid phương Nam, mang cả hai yếu tố Mongoloid và Australoid. Đây là những loại hình nhân chủng phổ biến cư trú ở Đông Dương và khu vực xung quanh vào giai đoạn chuyển tiếp từ hậu kỳ Đá cũ đến sơ kỳ Đá mới.

          Bộ di vật đá được chia thành 5 nhóm tiêu biểu, gồm: nhóm công cụ ghè đẽo; nhóm rìu mài lưỡi; dấu Bắc Sơn; nhóm hạch đá và mảnh tước; và nhóm công cụ cuội nguyên, phần lớn làm từ cuội sông suối với các loại chất liệu phổ biến như porphyrite, rhyolith, granite, diabaze, quartzite…Trong đó, công cụ ghè đẽo, công cụ rìu mài lưỡi, dấu Bắc Sơn là những công cụ đặc trưng tiêu biểu của văn hóa này. Ngoài những công cụ đá, người Bắc Sơn còn chế tác và sử dụng công cụ xương, sừng và vỏ nhuyễn thể, song số lượng không nhiều và loại hình còn đơn điệu.

          Đồ gốm: phát hiện được khá ít, đặc trưng: gốm thô, nặn bằng tay, độ nung thấp.

3.Văn hóa khảo cổ Mai Pha

          Sau Văn hóa Bắc Sơn, con người cổ đại tiếp tục lưu trú ở Lạng Sơn trong thời kỳ giữa thời kỳ đồ đá mới, với các di tích ở động Phia Điềm và Phai Vệ 2. Vào cuối thời kỳ đồ đá mới, họ đã thiết lập một nền văn hóa mới nhưng liên tục - văn hóa Mai Pha - có niên đại khoảng 4.000-3.000 năm trước.

          Văn hóa Mai Pha, thể hiện ở hang Mai Pha, thành phố Lạng Sơn, trên thực tế, được một chủ đồn điền người Pháp là ông Restif khai quật và được H. Mansuy công bố vào năm 1920. Sau đó, hang được H. Mansuy và M. Colani. Đến năm 1998, các nhà khảo cổ học đã phát hiện xung quanh thành phố Lạng Sơn 12 địa điểm có tính chất, niên đại tương tự nhau và xác lập nền văn hóa khảo cổ Mai Pha cuối thời kỳ đồ đá mới.

Di chỉ Mai Pha

          Địa điểm cư trú của cư dân Văn hóa Mai Pha có sự khác biệt so với Văn hóa Bắc Sơn. Cư dân Văn hóa Mai Pha tập trung chủ yếu ở rìa Đông Bắc của sơn khối đá vôi Bắc Sơn, gần thành phố Lạng Sơn ngày nay, và một số ở rìa phía Nam, nơi có địa hình tương đối thấp, chỉ 300-400m, xen lẫn đá vôi và đá lục nguyên, có thung lũng rộng, đồng ruộng bằng phẳng, nhiều sông suối với nguồn nước dồi dào. Cư dân văn hóa Mai Pha sống trong những hang động nhỏ, phân tán, không còn cư trú thành từng cụm lớn trong các thung lũng khép kín như văn hóa Bắc Sơn. Có thể nói với văn hóa Mai Pha con người đã bước đầu không còn phu thuộc nhiều vào hoạt động săn bắt hái lượm sự trong vùng sơn khối đá vôi Bắc Sơn mà tiến tới chinh phục các thung lũng bên ngoài vùng sơn khối Bắc Sơn với sự phát triển của chăn nuôi: thuần dưỡng trâu, lợn, chó (Tại di chỉ Mai Pha tỷ lệ lợn nhà và lợn rừng là 07/38 tiêu bản), trồng trọt (Vết tích quả hạt và mẫu bào tử phấn hoa: ngành Dương xỉ thực vật hạt trần như Thông, thực vật hạt kín: Rau muối, Sau sau, Hòa thảo, Cà phê).

Công cụ lao động của cư dân văn hóa Mai Pha rất phong phú ngoài những công cụ bằng đá như rìu, bôn, đục họ còn chế tác từ các nguyên liệu khác là vỏ trai.

Rìu mài toàn thân và công cụ làm bằng vơ trai.

(Ảnh: Phan Thanh Toàn)

Đồ gốm: mang đầy đủ những đặc điểm và tính chất chung của đồ gốm thuộc giai đoạn hậu kỳ đá mới và sơ kỳ kim khí ở nước ta: Chất liệu chủ yếu là sét và cát, xương gốm mỏng, cứng và có độ nung cao, được chế tạo chủ yếu bằng bàn xoay, đại bộ phận được trang trí văn thừng và một số hoa văn khắc vạch, trỗ lỗ thủng, miếng lát, phần lớn được phủ màu đỏ thổ hoàng, đã xuất hiện loại hình đồ đựng mang tính nghệ thuật cao (bát bồng). Tuy nhiên so với các vùng đồng bằng và ven biển, gốm Mai Pha cũng bộc lộ nhiều nét riêng biệt. Toàn bộ gốm Mai Pha đều thuộc loại gốm cứng, chắc có màu đỏ gạch, một số ít gốm đen hoặc có dấu vết ám khói, chủ yếu là nồi, bát và bát bồng, kích thước đồ đựng nhỏ, không thấy loại hình vò, chậu hay bình.

Về hoa văn, ở Mai Pha chỉ có 3 loại: thừng, khắc vạch và trổ lỗ thủng thể trình độ kỹ thuật tạo hoa văn và tư duy mỹ cảm của người thợ gốm khá cao.

Hoa văn trên Gốm Mai Pha.

(Ảnh chụp tại Bảo tàng Lạng Sơn)

          Văn thừng trên gốm Mai Pha rất tinh xảo, mịn và đẹp do được tạo ra bằng kỹ thuật trục lăn có quấn dây nhỏ, săn. Các đường nét dấu thừng trên gốm Mai Pha đều rất dài, thẳng chạy dọc theo trục đứng đồ đựng. Đó là một trong những đặc điểm để phân biệt gốm vặn thừng Mai Pha với các văn hóa khác. Có thể nói hoa văn vặn thừng Mai Pha không còn có ý nghĩa về kỹ thuật mà thực sự nó đã trở thành một loại hoa văn có tính trang trí cao. Riêng về nghệ thuật trang trí bằng kỹ thuật khắc vạch và trỗ lỗ thủng, người thợ gốm Mai Pha đã biết kết hợp một cách rất hài hòa để tạo ra những mô típ hoa văn đẹp và gây ấn tượng mạnh mẽ. Nổi bật nhất là hoa văn hình “hoa thị” và các biểu hiện của nó, được bố trí liên hoàn quanh vành chân đế bát bồng. Với cách bố trí các mô típ “hoa thị” nối nhau chạy quanh vành chân đế người ta sẽ có một dải hoa văn rất đẹp và sinh động.

          Các biến thể của loại hoa văn này cũng được tạo ra bằng cách phân tách chúng thành các dạng hoa văn hình 2 cánh lá, 1 cánh lá hoặc nửa cánh lá, cổ trổ lỗ ở giữa tạo ra những đường vạch thẳng dạng hình học. Một số là hình chữ V kép, hoặc những đường thẳng song song cắt chéo nhau thành hình chữ thập. Giữa đầu nhọn chữ V hay ở điểm cắt nhau của chữ thập đều được trổ lỗ thủng. Vì vậy chúng tôi cho rằng chúng cũng là những biến thể của phong cách mô típ hình hoa thị. Có thể nói đây là hoa văn chủ đạo mang tính biểu tượng đặc sắc nhất trong nghệ thuật trang trí trên gốm Mai Pha. Nó chưa hề tìm thấy trong bất cứ nền văn hóa nào đã biết ở nước ta.

          Về loại hình đồ đựng, bên cạnh sự phổ biến loại nồi có miệng loe gần gãy ở cổ, thân đáy tròn và bát đồng có chân đế được trang trí hoa văn hình hoa thị nói trên, thì ở Mai Pha còn xuất hiện một số đồ đựng có gắn quai từ mép miệng loe xuống vai đồ đựng và loại đồ đựng có gắn núm gốm ở thân được dùi lỗ dọc từ trên xuống dùng để xỏ dây mang. Ngoài ra còn có loại đồ đựng được gắn hai chiếc tai ngay ở mép miệng giống như chiếc chảo hoặc chiếc sanh hiện đại. Đây cũng là loại hình đồ đựng đầu tiên được tìm thấy ở nước ta.

Văn hóa Mai Pha mối liên hệ với các nền văn hóa đương thời ở những nơi khác: văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa biển Hạ Long.

Tổng hợp: Dương Việt Hưng

BQL Công viên địa chất Lạng Sơn

 

Bài liên quan
Tổ chức Đoàn công tác Ban Quản lý Công viên địa chất Lạng Sơn đi làm việc với một số đối tác nước ngoài tại Hà Nội
21/10/2024

Tổ chức Đoàn công tác Ban Quản lý Công viên địa chất Lạng Sơn đi làm việc với một số đối tác nước ngoài tại Hà Nội

Công tác chuyển đổi số trong bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị công viên địa chất toàn cầu UNESCO Lạng Sơn và quảng bá, lan tỏa hình ảnh, xúc tiến đầu tư, vận động các nguồn tài trợ, hỗ trợ cho việc xây dựng, vận hành, phát huy các giá trị của công viê
27/09/2024

Công tác chuyển đổi số trong bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị công viên địa chất toàn cầu UNESCO Lạng Sơn và quảng bá, lan tỏa hình ảnh, xúc tiến đầu tư, vận động các nguồn tài trợ, hỗ trợ cho việc xây dựng, vận hành, phát huy các giá trị của công viê

Lạng Sơn tham dự Hội nghị quốc tế lần thứ 8  của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO  khu vực Châu Á - Thái Bình Dương năm 2024 tại tỉnh Cao Bằng
22/09/2024

Lạng Sơn tham dự Hội nghị quốc tế lần thứ 8 của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình Dương năm 2024 tại tỉnh Cao Bằng

0.12465 sec| 920.977 kb